Việt Nam là quốc gia biển, có bờ biển dài trên 3.260km với hàng nghìn đảo lớn nhỏ, phân bổ đều khắp đất nước.
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, biển đảo luôn có vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt, là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, không gian phát triển bao đời của dân tộc ta.
Với nguồn tài nguyên phong phú, trữ lượng lớn về hải sản, khoáng sản, biển được con người khai thác, sử dụng, tạo sinh kế cho người dân, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Không những thế, với vị trí chiến lược nằm trên tuyến hàng hải huyết mạch thông thương giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, biển đảo Việt Nam còn đóng vai trò là cửa ngõ rất quan trọng trong giao thương hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, biển đảo luôn là địa bàn chiến lược, là phòng tuyến vững chắc của đất nước.
Tại Lễ hội Văn hóa dân gian Biển đảo Việt Nam 2023 tổ chức tại Hải Phòng mới đây, Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân nhấn mạnh, biển đảo vừa khởi tạo không gian sinh tồn, đồng thời bồi đắp không gian văn hóa rất khoáng đạt, phong phú và đặc sắc. Văn hóa biển là một là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam, thống nhất trong đa dạng, đậm đà bản sắc dân tộc, tồn tại mãnh liệt trong tâm thức người Việt.
Trong văn hóa biển ấy, nhiều lễ hội dân gian độc đáo được ghi dấu, lưu giữ, trao truyền, phát triển đến ngày nay, trở thành nét đẹp truyền thống, đặc trưng của người dân miền biển
Hải Phòng là vùng đất trung dũng, quyết thắng, nơi có sông Bạch Đằng nổi tiếng với 3 chiến công vang dội của dân tộc ta chống giặc ngoại xâm; nơi có bến K15, điểm xuất phát của những con tàu không số làm nên huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, góp phần quan trọng vào Đại thắng mùa Xuân năm 1975.
Lễ hội Văn hóa dân gian Biển đảo Việt Nam lần đầu tiên tổ chức ở Hải Phòng là mốc khởi đầu ý nghĩa cho một sự kiện thường niên, có giá trị văn hóa sâu sắc nhằm giới thiệu, tôn vinh và phát huy giá trị của Di sản văn hóa dân gian miền biển đến nhân dân và du khách trong, ngoài nước, góp phần kích cầu du lịch, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, nhất là đối với bà con ngư dân, các lực lượng chuyên trách đang làm nhiệm vụ tại các vùng biển và hải đảo của Tổ quốc.
Từ sự kiện này, cùng với các sự kiện về biển đảo được tổ chức ở nhiều địa phương trong cả nước sẽ trở thành nguồn lực, động lực quan trọng, góp phần hiện thực hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh, phấn đấu đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh, an toàn.
Trong quá trình tiếp xúc và tương tác với biển và đảo, con người đã tạo ra những giá trị, được tích tụ qua hàng ngàn đời, để đến hôm nay được gọi chung với cái tên: Văn hóa biển đảo.
Văn hóa biển đảo hay hẹp hơn là Di sản văn hóa biển đảo, trong đó bao hàm cả vùng duyên hải, gồm hai hợp phần, đó là văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể là những sáng tạo của con người được tồn tại dưới dạng thức vật chất. Văn hóa phi vật thể tồn tại nghiêng về giá trị tinh thần. Nhiều khi, giá trị vật thể và phi vật thể không có làn ranh phân cách.
Việt Nam với chiều dài hơn ba nghìn cây số đường biển và tương đương với con số ấy là các đảo và quần đảo. Dân cư sống trên những vùng đất ấy khá đông đúc và lâu đời nên đã để lại một kho tàng di sản văn hóa vô cùng lớn lao và cũng vô cùng giá trị.
Khảo cổ học đã phát hiện hàng loạt các ngôi làng, nơi cư trú của con người thời Tiền – Sơ sử. Đó là những chủ thể của các nền văn hóa Hạ Long, Cái Bèo, Bàu Tró, Đông Sơn, Sa Huỳnh, có niên đại cách đây nhiều nghìn năm, với nội dung, tính chất, đặc trưng văn hóa khá tương đồng với nội địa, phản ánh tính thống nhất trong đa dạng văn hóa đã hình thành từ sớm trên mảnh đất chữ S hôm nay. Đặc biệt các cuộc điều tra khai quật khảo cổ đã khẳng định trên các đảo thuộc quần đảo Trường Sa đã có người tiền sử cho đến người Việt Nam cư trú liên tục cho đến nay. Một chứng cứ khoa học không thể tranh cãi về chủ quyền của Việt Nam đối với Trường Sa, Hoàng Sa.
Những di tích văn hóa thời kỳ lịch sử, bao gồm các vạn chài, các công trình tôn giáo tín ngưỡng, các vùng đất khai hoang lấn biển, các hệ thống đồn bảo phòng thủ, các thương cảng cổ, đê biển và ấn chương… được phát hiện đậm đặc, suốt từ Móng Cái đến mũi Cà Mau, như là những minh chứng cho quá trình chinh phục chiếm lĩnh và làm chủ vùng cận duyên và hải đảo của cha ông ta, mà những nhà nghiên cứu Mỹ đã có lý khi lấy tên cho một cuộc trưng bầy Việt Nam ở Hoa Kỳ “Từ đồng bằng ra biển lớn”, thông qua di sản văn hóa Việt Nam trong suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử.
Những di sản văn hóa vật thể biển Việt Nam còn được biểu hiện thông qua tàn tích các con tàu đắm cổ, đã được phát hiện, khai quật và báo dẫn khá dầy đặc trên vùng lãnh hải nước ta. Hàng hóa trên tàu không chỉ có nguồn gốc, xuất xứ Việt Nam mà còn nhiều quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới, đã chứng minh vị trí, vai trò của Việt Nam và biển Việt Nam trên con đường hàng hải quốc tế mà các cảng ven bờ, các đảo ngoài khơi luôn là điểm dừng chân lý tưởng cho các thuyền buôn lưu trú, lấy nước ngọt qua những chuyến đi biển dài ngày.
Di sản văn hóa biển đảo Việt Nam còn là những bộ sách sử, những châu bản, mộc bản, bản đồ, hải đồ, trong đó nổi bật là Châu bản triều Nguyễn vừa được UNESCO vinh danh là di sản ký ức thế giới, hẳn là những tài liệu vô cùng có ý nghĩa góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước ta, nhân dân ta với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa.
Văn hóa phi vật thể trong kho tàng di sản văn hóa biển đảo Việt Nam vô cùng phong phú, được biểu hiện dưới nhiều dạng thức. Đó là những kinh nghiệm sống và làm ăn của cư dân được tích tụ và truyền lại từ nhiều thế hệ. Đó là những tri thức được tích lũy và ứng dụng thông qua sinh hoạt thường nhật và lao động sản xuất mùa vụ. Đó là những tín ngưỡng, dân ca, truyền thuyết, thần thoại được sáng tạo và hội nhập từ nhiều nền văn hóa và văn minh, qua bao thế hệ của lợi thế vị trí biển đảo đem lại. Tuy nhiên, lễ hội vẫn là một sáng tạo đặc biệt có ý nghĩa của hầu hết cộng đồng cư dân, nhưng với cư dân biển đảo Việt Nam, có một điều thiêng liêng lạ kỳ, mà Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa ở huyện đảo Lý Sơn (Quảng Ngãi), gắn với việc thực thi chủ quyền Tổ quốc ở quần đảo Hoàng Sa là một trong nhiều ví dụ điển hình nhất.
Di sản văn hóa biển đảo Việt Nam mà tôi vừa lược phác, dẫu chẳng thấm tháp gì so với thực tế hiện đang lưu tồn dưới lòng đất, lòng biển và trong ký ức cộng đồng, trong tri thức bản địa…, nhưng xem ra đã là vô cùng đồ sộ, với nhiều lĩnh vực, nhiều cạnh khía khác nhau. Thế nhưng, cho đến những năm gần đây, việc nghiên cứu di sản văn hóa biển đảo, theo đó là việc phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo chưa thực sự được như mong muốn, do nhiều lý do khách quan và chủ quan. Sự thiếu tập trung và manh mún, đến từ các nhà nghiên cứu và các cơ quan nghiên cứu. Sự không liên tục và đứt gẫy. Sự thiếu liên thông và cục bộ trong khó khăn khai thác tư liệu… Song, trên hết, và bao trùm lên tất cả là rất cần một nhận thức và hành động thống nhất, đầy đủ từ các cấp, các ngành và các địa phương về giá trị văn hóa biển đảo Việt Nam.
Hội nghị Trung ương IV, khóa X Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một nghị quyết chiến lược vô cùng quan trọng đối với biển Việt Nam, đó là “Phải phấn đấu để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế xã hội với đảm bảo an ninh và bảo vệ môi trường”.
Với tinh thần ấy, cần gấp rút thu thập tư liệu về văn hóa biển đảo. Cần pháp lý hóa, quốc tế hóa những giá trị cần phải bảo tồn lâu dài và khai thác vào những mục tiêu quan trọng. Cần đẩy mạnh việc bảo tồn với phát huy giá trị thông qua phát triển du lịch gắn với di sản văn hóa biển đảo. Cần gắn công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa biển đảo với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên Biển Đông và các hải đảo, đặc biệt là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Như thế, Việt Nam cần sớm có một trung tâm nghiên cứu di sản văn hóa biển đảo – một mô hình mà nhiều quốc gia có hoàn cảnh giống Việt Nam đã thành công khi đã trải nghiệm qua nhiều thập niên hoạt động./.
BP - Với 3.260km đường bờ biển và khoảng 1 triệu km2 vùng biển có chủ quyền, từ ngàn xưa dân tộc ta đã tạo nên những dấu ấn văn hóa biển đặc trưng. Truyền thống văn hóa biển Việt Nam đa dạng và phong phú với nhiều loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 chỉ rõ: “...Chú trọng phát triển các thiết chế văn hóa cho cộng đồng dân cư biển và ven biển; phát huy bản sắc, giá trị lịch sử và văn hóa dân tộc, tri thức tốt đẹp trong ứng xử với biển, coi đây là nền tảng quan trọng để xây dựng văn hóa biển...”.
VĂN HÓA BIỂN VỀ VẬT CHẤT
Theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu thì văn hóa biển là “hệ thống hóa các giá trị do con người sáng tạo ra và tích lũy được trong quá trình tồn tại, lấy biển cả làm nguồn sống chính... Văn hóa biển phải thỏa mãn các yếu tố đặc trưng có tính hệ thống về giá trị nhân văn, tính lịch sử, không gian, môi trường”. Ở Việt Nam, văn hóa biển đã có từ hàng ngàn năm, người dân cật lực mưu sinh, cuộc sống gắn với biển và cũng mang trong mình niềm tự hào lớn lao về biển. Những nét văn hóa đó thể hiện trong nghề đi biển, giao thương biển, tổ chức xã hội, lễ hội, tập tục, truyền thống chống ngoại xâm của cư dân ven biển... Trong quan hệ cộng sinh với biển, từ xưa người Việt đã có kỹ thuật làm muối từ nước biển rất độc đáo, đồng thời học cách chưng cất nước mắm từ cá biển. Nước mắm chính là cách làm chín cá không qua lửa và tạo nên các sản phẩm vô cùng phong phú, đặc sắc. Từ đó nước mắm đã trở thành yếu tố không thể thiếu trong sinh hoạt ẩm thực của cả dân tộc đến ngày nay. Bên cạnh đó, người Việt cũng đã tiếp thu kỹ thuật sử dụng và đóng ghe bầu lớn của người Chăm để vươn ra khơi đánh cá.
Thế kỷ XVIII, các triều đại nhà Nguyễn đã chú ý đến đóng thuyền bè với trình độ khá cao, được các nước lân bang đương thời khen ngợi. Công nghệ đóng tàu biển hiện nay của Việt Nam là kế thừa kỹ thuật truyền thống, kết hợp với công nghệ hiện đại, thu hút sự quan tâm của các thương nhân ở nhiều quốc gia trên thế giới. Quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc lãnh hải Việt Nam, do chúa Nguyễn quản lý. Các chúa Nguyễn đã thành lập đội Hoàng Sa, dong thuyền đến các quần đảo Hoàng Sa và Bắc Hải (Trường Sa), không chỉ khai thác nguồn lợi hải sản mà còn đo đạc địa vực, hải trình, xác lập chủ quyền quốc gia trên những vùng biển đảo xa xôi, hiểm trở và kiểm soát các tàu biển qua lại khu vực này. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, người Việt đã dựa vào biển, khai thác đường biển, phục vụ kháng chiến. Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển với những đoàn tàu không số chở quân lương và vũ khí cung cấp cho miền Nam làm nên kỳ tích trong cuộc kháng chiến giành độc lập, thống nhất đất nước là minh chứng tiêu biểu cho nền văn hóa biển thời kỳ hiện đại.
Những giá trị văn hóa và cố kết cộng đồng
Sống giữa đại dương bao la, trong một môi trường biệt lập, từ bao đời nay cuộc sống của cư dân trên các hòn đảo đã và đang gắn liền với biển cả. Thêm vào đó, họ lại thuộc nhiều thành phần tộc người khác nhau, đến từ các vùng đất khác nhau, do vậy đã hình thành nên một sắc thái văn hóa độc đáo riêng, khác với đất liền về phong tục, tập quán, tín ngưỡng dân gian của xứ đảo. Qua khảo sát đời sống văn hóa của một số đảo lớn như Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý…, không khó để nhận diện mối quan hệ tiếp biến và pha trộn, đan xen, hài hòa về văn hóa của các tộc người (Chăm, Việt, Hoa) vốn hội tụ từ nhiều địa phương, đã mang đến cho đất đảo một sắc màu mới, một không gian văn hóa mới. Hệ thống đa dạng các loại di tích và không gian thực hành tín ngưỡng, sinh hoạt lễ hội, kèm theo đó là những phong tục, tập quán, hương ước,… đã giúp cho cư dân biển đảo giữ được nhiều phong tục tập quán xưa, nhiều truyền thống đẹp, thể hiện qua thói ăn, nếp ở, cách giao tiếp ứng xử trong cộng đồng cũng như các lễ tục. Trong đó, có những hình thức sinh hoạt tín ngưỡng lễ hội chỉ có ở môi trường thường xuyên phải ứng xử với những điều kiện khắc nghiệt của biển, như Lễ khao lề thế, tục thờ mộ gió tại đảo Lý Sơn,…
Bên cạnh đó, nhiều cộng đồng tộc người đến từ những vùng quê khác nhau trên dải đất miền trung chật hẹp về lãnh thổ, khô cằn về địa mạo và cơ cực về sinh kế, đã cùng hội tụ và đồng thuận tạo lập nên một không gian văn hóa mang tính cộng đồng cao. Dường như mọi giá trị văn hóa của cư dân trên hải đảo đều hướng đến sự cố kết cộng đồng để tạo nên sức mạnh tổng hợp, đủ sức thích ứng và tồn tại. Chính vì thế, các sản phẩm văn hóa vật thể và phi vật thể từ các quần đảo, hải đảo với những giá trị văn hóa – cố kết cộng đồng còn nói lên sức sống mãnh liệt của nhân dân qua hàng trăm năm giữa biển khơi, làm rạng rỡ nguồn gốc con người Việt Nam nơi đại dương.
Kho tàng tri thức về văn hóa biển đảo được kết tinh từ quá trình vật lộn với biển cả để sinh tồn và phát triển mang những giá trị lớn về kinh nghiệm thích ứng với đại dương. Các tri thức về nhận biết sự vận hành hải lưu, khí hậu biển, chế tạo ngư cụ, kỹ thuật khai thác tài nguyên biển, chế biến và bảo quản hải sản, kinh nghiệm trao đổi hàng hóa đã và đang là những nguồn tri thức liên quan đến biển mà ngư dân biển đảo sáng tạo, đúc kết và truyền lại qua các thế hệ, tạo nên một truyền thống tri thức về môi trường biển đặc biệt khắc nghiệt. Nếu như tri thức về môi trường duyên hải/cận duyên luôn được sự hỗ trợ, bổ khuyết từ nguồn tri thức và môi trường lục địa, thì tri thức về môi trường biển lại có giá trị riêng biệt và đáng quý với ngư dân hướng ra đại dương trong hiện tại và lâu dài. Điều đó càng đặc biệt lộ rõ giá trị khi trong hoàn cảnh các phương tiện khoa học công nghệ hiện đại chưa kịp thời song hành vươn ra hỗ trợ ngư dân đại dương như sự hiện diện phổ biến và sâu rộng trên lục địa.
Những giá trị về ý thức chủ quyền và lãnh thổ quốc gia
Văn hóa biển đảo đại dương với sự phong phú, đa dạng và đặc sắc của nó, còn ẩn chứa những giá trị giáo dục, trao truyền và nâng cao cho cộng đồng ngư dân biển đảo ý thức về lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc và vai trò đảm trách sứ mệnh làm chủ từng vùng đất vừa là quê hương cư trú, vừa là một phần lãnh hải được Tổ quốc trao phó. Nhìn theo ngọn nguồn lịch sử hình thành nên kho tàng văn hóa biển vùng nam Trung Bộ, có thể nhận thấy các lớp văn hóa được sáng tạo bởi cư dân Sa Huỳnh – Đông Sơn – Chămpa – Đại Việt đã gắn bó chặt chẽ với sự hình thành và phát triển của đời sống xã hội cộng đồng tại các quần đảo và hải đảo, tiêu biểu là đảo Lý Sơn. Ngay tại môi trường sống/không gian văn hóa Lý Sơn này, trải qua thời các chúa Nguyễn đến thời Gia Long, đội Hoàng Sa trong ba thế kỷ (XVII, XVIII, XIX) đã làm nhiệm vụ lịch sử thật đặc biệt là khai thác hải vật cùng hàng hóa trên các đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, góp phần khẳng định chủ quyền của Việt Nam nơi đầu sóng ngọn gió. Những minh chứng về quá trình thực hành tín ngưỡng, sinh hoạt lễ hội lề thế trước khi tiễn các chiến binh ra Hoàng Sa, Trường Sa đã thể hiện ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo, bất chấp mọi hiểm nguy trước sự khắc nghiệt của biển cả và giặc thù, để lại nhiều di sản văn hóa vô cùng giá trị, đến nay vẫn được bảo tồn và phát huy.
Song hành với quá trình tôi luyện, trải nghiệm qua tiến trình ứng xử với đại dương để tồn tại qua các thế hệ, chủ nhân của vùng biển đảo nam Trung Bộ còn hướng sự hòa nhập các tri thức văn hóa của mình tới quỹ đạo đồng thuận với ý thức chủ quyền quốc gia của bộ máy thống trị đương thời, thông qua sự tiếp nhận và chấp pháp các văn bản, châu bản của triều đình nhà Nguyễn một cách triệt để, phục vụ nhiệm vụ tối thượng là bảo vệ chủ quyền và lãnh thổ quốc gia trước mọi thế lực ngoại bang.
Cho đến nay, với thực trạng chính trị đã và đang diễn ra trên Biển Đông cùng những vấn đề nảy sinh giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong khu vực về chủ quyền và quyền chủ quyền lãnh hải, lãnh thổ, nguồn di sản văn hóa đa dạng và phong phú của các thế hệ ngư dân hải đảo nam Trung Bộ càng có giá trị quan trọng về an ninh quốc phòng, về chủ quyền và quyền chủ quyền lãnh thổ quốc gia.